Cuộc cướp phá thành La Mã của người Tây Goth Honorius_(hoàng_đế)

Thú cưng của Hoàng đế Honorius, thực hiện bởi John William Waterhouse, 1883.

Một trong những sự kiện nổi tiếng nhất trong suốt thời kỳ trị vì của ông chính là vụ đột kích và cướp phá thành La Mã vào ngày 24 tháng 8 năm 410, do người Tây Goth dưới quyền vua Alaric thực hiện.

Thành phố bị người Tây Goth vây hãm một thời gian ngắn sau khi StIlyicho bị cách chức và xử tử vào mùa hè năm 408. Thiếu một vị tướng lĩnh tài giỏi đủ để kiểm soát, chỉ huy quân đội La Mã phần lớn là người rợ, Honorius có thể tiến hành một cuộc tấn công nhỏ trực tiếp vào lực lượng của Alaric, tuy nhiên thông qua một chiến lược duy nhất mà ông có thể làm được trong tình hình lúc bấy giờ: chờ đợi một cách thụ động để dụ người Tây Goth rơi vào tình trạng mệt mỏi, kiệt sức và dành thời gian sắp xếp lại việc truy kích mà lực lượng của ông có thể làm được. Thật không may, xuất hiện quá trình của hành động này dường như chỉ là sản phẩm cho tính do dự, thiếu quyết đoán của Honorius mà ông bị hậu thế và các nhà sử học sau này chỉ trích, phê bình thậm tệ.

Cho dù kế hoạch này có thể đã là sự việc có lẽ gây tranh cãi nhiều nhất dù trong bất kỳ trường hợp nào. Bị ảnh hưởng bởi nạn đói, một số đông nô lệ và binh lính đào ngũ đã chạy tới mở cửa thành phòng thủ thành La Mã để cho Alaric kéo đội quân Tây Goth tràn vào cướp phá trên quy mô lớn. Một số lớn quý tộc, cư dân và nô lệ bị giết chết hoặc bị bắt làm tù binh, bán làm nô lệ. Một số khác trốn thoát được, chạy sang lánh nạn ở nước ngoài. Người Tây Goth sau đó không chiếm đóng thành phố La Mã mà chuyển sang sinh sống trên bán đảo Tây Ban Nha và miền Nam xứ Gaul. Thành phố La Mã đã tồn tại hơn 1.200 năm (từ thế kỷ VIII trước Công Nguyên đến giữa thế kỷ V sau Công Nguyên) chưa từng bị một lựclượng ngoại bang hoặc một cuộc khởi nghĩa, nổi loạn nào chiếm đóng hay phá hủy, vì thế La Mã được mệnh danh là "thành phố vĩnh cửu".[36]

Vụ cướp phá tự bản thân nó được một số sử gia xem như bao vụ cướp phá bình thường khác vì mức độ hủy hoại không thực sự nghiêm trọng, ví dụ như Nhà thờ, trụ sở của Giáo hội và các tượng đại tôn giáo đã không hề hấn gì. Đây là một đòn tinh thần đau đớn nhất mà người La Mã đã phải hứng chịu từ trước tới giờ. Cú sốc của sự kiện này còn vang dội từ Anh đến Jerusalem, và là nguồn cảm hứng cho Augustine viết nên kiệt tác The City of God (Thành phố Thiên Chúa) của ông.

Vào năm 410, Honorius phúc đáp thư cầu xin thẩn khiết sự trợ giúp từ đảo Anh để chống lại các cuộc xâm nhập của người man rợ tại địa phương mình, gọi là Huấn Lệnh Honorius. Vì còn bận tâm với mối đe dọa từ người Tây Goth nên Honorius không có bất kỳ khả năng quân sự nào để hỗ trợ các tỉnh ở xa. Theo học giả Đông La Mã vào thế kỷ thứ sáu là Zosimus, "Honorius viết thư cho các thành phố ở Anh ra lệnh cho họ tự bảo vệ lấy bản thân họ".[37] Câu này có vị trí ngẫu nhiên ở giữa một cuộc thảo luận của miền Nam Ý, không có đề cập nào được thực hiện ở Anh, điều này đã dẫn đến một số nghi ngờ, mặc dù không phải tất cả, từ các học giả hiện đại cho thấy rằng huấn lệnh trên không phải được áp dụng ở Anh, mà là tại Bruttium ở Ý.[38][39][40]